Nguồn gốc tên gọi Hủ Tiếu gõ
Nhắc đến hủ tiếu gõ, người ta dễ dàng hình dung ra những nẻo đường Sài Gòn về khuya, với một chiếc xe được dựng lên tạm bợ, bên trong đó là nồi nước lèo bốc khói trắng nghi ngút, ngăn để tô, muỗng, gia vị, ít đồ làm hủ tiếu… Thế rồi, hình ảnh chiếc xe đơn sơ với những tiếng gõ lóc cóc bắt đầu vang vọng trên những con đường, đi sâu vào trong từng góc hẻm…
Chẳng ai biết hủ tiếu gõ có từ bao giờ. Nhưng những ai từng có thời gian sống ở Sài Gòn hẳn đã từng bắt gặp những chiếc xe hủ tiếu gõ trên các góc phố, lề đường vào mỗi buổi đêm, khi muốn đi tìm chỗ ăn mà các hàng quán đều đã đóng cửa.
Hồi trước, mỗi hàng hủ tiếu thường sẽ có một cậu bé cầm hai thanh tre hoặc sắt đi theo, vừa đi vừa gõ để tạo ra âm thanh cho khách hàng nhận biết. Ai muốn ăn thì gọi lớn, thế là sẽ có ngay bát hủ tiếu gõ nóng hổi được mang đến tận nhà.
Những hình ảnh rất đời của một Sài Gòn nhộn nhịp.
Một chiếc xe chở được cả một “quán ăn” với lỉnh kỉnh đồ đạc, đi đến tận cùng mọi con hẻm hun hút của Sài Gòn. Những chiếc tô nhựa vàng, xanh bạc màu, lấm tấm vài đốm đen. Bàn ghế nhựa trầy xước và cũ kỹ. Anh chủ “quán” với chiếc quần cọc, áo thun rộng. Đó là tất cả những gì bạn vừa nhìn đã thấy khi đi lướt qua những cái “quán” nhỏ này. Nhưng nếu dừng lại và thưởng thức “thực đơn một món” của “quán”, bạn mới cảm nhận được trọn vẹn cái thú của món ăn này, một món ăn bình dân, mang đậm phong vị của đêm Sài Gòn.
Tô hủ tiếu với nước lèo trong veo, vài ba miếng thịt mỏng tang mà lần nào vớt miếng thịt lên khỏi tô bún, bạn cũng phục đến sát đất kỹ năng cắt thái thượng thừa của anh chủ quán. Nêm chút nước mắm, vắt miếng nước cốt chanh, thêm một muỗng ớt sa tế, vài lát ớt sừng, một ít tương ớt, mùi thơm cay nồng xộc vào mũi, đánh thức vị giác của người dùng, sẵn sàng làm xiêu lòng bất cứ ai theo một cách bình dân nhất.
Mỗi tô hủ tiếu chỉ có giá 10 ngàn, chỗ 15, chỗ 18 ngàn… cũng đầy đủ hủ tiếu, rau, giá, thịt heo thái mỏng, bò viên, có chỗ còn cho thêm trứng cút và vài cục xí quách (xương heo). Tuy không quá đầy đặn hay nhiều nhân như các loại hủ tiếu khác nhưng cũng đủ để người ta ăn cho ấm bụng.
Bên chiếc xe hủ tiếu gõ nhỏ là biết bao câu chuyện đời. Những câu chuyện không được kể bằng tiếng nói cười rôm rả, người ta kể cho nhau nghe bằng tiếng thở dài lặng lẽ, bằng ánh nhìn vô định xa xăm, bằng một khoảng lặng kì lạ giữa lòng thành phố huyên náo và vội vã này. Đó là câu chuyện về nỗi lo thường nhật của những sinh viên nghèo, ăn một tô hủ tiếu gõ mười lăm nghìn đồng cũng phải tính tới tính lui chi li từng đồng; là câu chuyện về cô công nhân khu chế xuất với gương mặt mệt mỏi, trầm mặc ăn vội bữa tối của mình để kịp giờ tăng ca; là chú công nhân công trình với quần áo còn bám đầy xi – măng, đất cát, khi mái tóc đã bạc theo nửa đời khổ nhọc vẫn vác trên vai gánh nặng mưu sinh.
Người chủ “quán” cũng có câu chuyện của mình, của sương đêm lạnh lẽo, đèn vàng hắt hiu, của những ngày mưa vắng khách nẫu ruột. Ngay cả cậu nhóc mười hai, mười ba tuổi lăng xăng phụ bưng hủ tiếu kia chắc cũng có câu chuyện của cậu, của giấc mơ về bộ đồng phục mới ngày khai trường, của món gà rán giòn tan, béo ngậy trong nhà hàng KFC sáng trưng bên kia đường. Dường như, câu chuyện của ai cũng buồn, một nỗi buồn miên man nhưng không hề bi lụy, lại có chút gì đó rất thi vị, để người ta nhấp nháp từng chút, từng chút mà say lòng, mà nhớ da diết khôn nguôi.
Một điều thú vị ở mấy cái “quán” nhỏ này là bạn rất ít khi hoặc chẳng bao giờ bắt gặp những người bán hàng rong, bán vé số “tác nghiệp” ở đây. Nếu họ ở đây thì cũng chỉ đơn giản là đến để gọi một tô hủ tiếu và ăn bữa tối của mình. Bởi lẽ, giá của một tờ vé số gần bằng một tô hủ tiếu và đối với những khách hàng thân quen của món ăn này, chắc họ cũng chẳng dư dả để trông vào may rủi.
- Tham khảo sách về lịch sử Việt Nam: Đại Việt sử ký toàn thư và Việt Nam sử lược