Demo Example
Demo Example
Demo Example
Con người Việt Nam

Nữ trạng nguyên duy nhất trong lịch sử Việt Nam

Một câu chuyện có thật trong lịch sử khoa bảng Việt Nam về nữ trạng nguyên duy nhất.

Thời phong kiến xưa, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” khiến phụ nữ khó có thể bình đẳng với nam giới, nhất là trong việc học hành, thi cử. Vậy mà có một nữ nhân đã đề danh bảng vàng, thi đỗ Trạng nguyên – danh hiệu học vị tiến sĩ cao nhất trong khoa thi Đình.

Đó là câu chuyện đầy bất ngờ về nữ nhi của một nhà Nho nghèo – Nguyễn Thị Duệ.

Nữ nhi tài hoa

Ngày 14/3/1574, ở vùng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, Hải Dương, một nữ nhi ra đời. Vốn sinh ra trong một gia đình Nho học nghèo khó, Nguyễn Thị Duệ (còn gọi là Nguyễn Ngọc Toàn hay Nguyễn Thị Du), hiệu Diệu Huyền sớm thể hiện sự thông minh trác việt. Duệ cũng yêu thích chữ nghĩa từ nhỏ.

Thuở nhỏ cô gái Nguyễn Thị Duệ tỏ ra rất sáng dạ. Lên 4 tuổi đã biết viết văn. Có cậu ấm trong vùng đến nghẹo, bà đã đọc châm 2 câu thơ: “ Xá chi vàng đá hỗn hào/ Thoảng đem cánh phượng bay cao thạch thành”. Nghe bà đọc, cậu ấm ta phải đánh bài chuồn.

Theo Hải Dương Phong Vật Chí và tài liệu của Văn Miếu Mao Điền – Hải Dương, ngay từ thuở lên 10, Duệ đã trổ mã xinh đẹp, nhiều nhà quyền quý đến hỏi nhưng gia đình không thuận. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí thì “bà thông minh hơn người, học rộng văn hay, năm mới hơn 10 tuổi, cải trang làm con trai để đi học”.

Các tâm gương người cùng quê hương thi cử đỗ đạt cao cũng đã kích thích hứng thú học tập của bà. Song thời đó cuộc nội chiến Trịnh – Mạc ở vào giai đoạn quyết liệt. Cuối năm 1592, theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư  Trịnh Tùng đem quân đánh vùng Hạ Hồng, Nam Sách, Kinh Môn, quê hương của Nguyễn Thị Duệ. Vua nhà Mạc là Mạc Mậu Hợp bị bắt. Mấy năm tiếp sau đó, vùng Hải Dương vừa bị chiến tranh cướp phá liên miên, lại vừa bị mất mùa đói kém, người chết như rạ…Nhà Mạc bị quân Trịnh đánh bại, phải chạy lên lập nghiệp ở Cao Bằng.

Nữ Trạng Nguyên – Giả trai đỗ đại khoa

Thời bấy giờ, phận nữ nhi chịu tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, luật lệ khi ấy không cho con gái dự thi.

Dù sống trong loạn lạc, bà vẫn chăm chỉ học hành. Gia đình cho bà theo học thầy. Năm tròn 20, cũng là khoa thi năm 1594, bà được học với một ông thầy họ Cao và cải trang thành nam giới, nên người ta thường gọi là anh Du. và ghi danh bảng vàng, đỗ Trạng nguyên, đứng đầu khoa thi khi ấy. Khoa thi Hội này không thấy nhắc đến trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cũng như các sách viết về chế độ thi cử nước ta. Tuy nhiên, thông tin được tìm thấy trong cuốn Chí Linh Phong Vật Chí.

Thời gian trên có lẽ không chính xác, vì năm này Mạc Mậu Hợp còn ở Thăng Long, chưa xảy ra các sự kiện mà Mạc phải chạy lên Cao Bằng. Theo người viết bài có lẽ vào năm Giáp Thìn (1604) thì đúng hơn. Lúc này Nguyễn Thị Duệ đã ở tuổi 30.

“Bà Chúa Sao Sa”

Trong cuốn Những Người Thầy Trong Sử Việt có nhắc đến việc: trong buổi tiệc mừng tân khoa, vua Mạc nhận ra ông nghè thủ khoa có dáng vẻ yêu kiều, thanh tú giống nữ giới. Sực nhớ đến giấc mộng đêm trước, thấy người đỗ tiến sĩ là nữ, nhà vua bèn gặng hỏi và bà Nguyễn Thị Duệ đành phải thú thực. Vua Mạc chẳng những không khép tội mạo danh theo quy chế thi cử thời phong kiến mà còn giữ nguyên học vị của bà và phong là “Diệu Huyền Sao Sa” nghĩa chữ  là “Tinh phi” (sao sa) rồi đưa vào cung. Bà được vua sủng ái, giao cho việc dạy bảo các phi tần. Dân gian quen gọi bà với cái tên “Bà chúa Sao sa”.

Thời gian này họ Mạc ở Cao Bằng thỉnh thoảng cũng đem quân về xuôi đánh phá một số vùng, ví như năm 1601, Mạc Kính Cung chiếm cứ Hải Dương. Sau đó bị Bình An Vương, Trịnh Tùng đánh bại, lại chạy lên Cao Bằng. Khoảng năm 1623. Mạc Kính Khoan lại kéo quân về tới tận Gia Lâm sát kinh đô Thăng  Long. Trịnh Cán cho đại quân chặn đánh, khiến quân Mạc đại bại, Kính Khoan may mắn chạy thoát. Năm 1625 Trịnh Tráng sai con là Trịnh Kiều đem quân lên Cao Bằng đánh họ Mạc, bắt giết Mạc Kính Cung. Mạc Kính Khoan chạy sang Tàu, sau trở về dâng biểu xin hàng, được phong làm Thái úy thống Quốc Công, lại cho giữ đất Cao Bằng.

Có lẽ khoảng thời gian 1623, nhân chuyến Mạc Kính Khoan kéo quân về xuôi, Nữ trạng nguyên Nguyễn Thị Duệ đã theo về thăm quê. Quân Mạc bị đánh bại tán loạn, về quê thì e ngại, mà trở lên Cao Bằng đường đã tắc nghẽn, nên Nguyễn Thị Duệ đành cải trang, xin vào tu trong một ngôi chùa.

Nữ trạng nguyên trở thành Lễ phi trong phủ chúa

Khi quân Trịnh đánh đuổi quân Mạc, kéo đến ngôi chùa này thì phát hiện được Nguyễn Thị Duệ. Tướng Trịnh bấy giờ là Nguyễn Quý Nhạ, vốn cùng quê với bà Duệ, lại quen nhau từ lúc thiếu thời, nên đem lòng quý mến, đã thảo một tờ khải dâng lên chúa Trịnh Tráng tâu trình về việc nữ sĩ Nguyễn Thị Duệ. Chúa Trịnh Tráng đọc tờ khải cũng thấy lạ, bèn truyền đòi đưa Nguyễn Thị Duệ về kinh. Qua hỏi chuyện, chúa nhận thấy bà Duệ có học thức uyên thâm, thấu đạt nhiều sách vở, tư cách đoan trang, bèn phong cho bà giữ chức Lễ Phi, làm công việc dạy dỗ các phi tần bên phủ chúa và cung vua.

Nữ trạng nguyên - Nguyễn Thị Duệ

Cũng trong thời này, Nguyễn Thị Duệ được gần gũi với hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, một bà hoàng nổi danh chữ nghĩa đương thời. Nguyên bà hoàng hậu họ Trịnh này là con chúa Trịnh Tráng, đã lấy Quận Công Lê Trụ,  bác họ của vua Lê Thần Tông và sinh hạ được bốn con. Lê Trụ bị tội, Trịnh Tráng đem bà gả cho vua. Lúc đầu vua miễn cưỡng lấy bà, nên khi nghe mấy viên quan can ngăn, đành nói: Xong việc thì thôi, lấy gượng vậy! Nhưng về sau do quý trọng tài đức, nhà vua đã lập bà làm hoàng hậu. 

Trịnh Thị Ngọc Trúc là người thích văn chương, chữ nghĩa. Bởi vậy khi gặp tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ thì hai người trở nên thân thiết, tri kỷ. Hoàng hậu họ Trịnh đã tiến cử bà Duệ với vua Lê Thần Tông. Nhà vua qua những lần hỏi han trò chuyện, đã thấy bà là một phụ nữ tài năng, đức độ nên phong cho bà chức Chiêu Nghi, đứng trên các cung tần. Bà lấy hiệu là Nghi Ái Quan, được nhà vua ưu ái, cho bày tỏ ý kiến về một số văn bản của triều đình, cũng như nhận xét, đánh giá bài làm của thí sinh các khoa thi hội, thi đình.

Sách chép khoa thi hội năm Tân Mùi niện hiệu Đức Long (1631) có một thí sinh đề ra 12 mục, nhưng bài thi chỉ làm 4 mục, song văn bút rất xuất sắc, độc đáo. Các khảo quan lấy làm lạ chưa dám quyết, tâu trình lên vua. Nhà vua giao cho số đỗ đại khoa trong triều xem lại bài. Bà Nghi Ái Quan cũng được tham dự. Bà đọc đi đọc lại bài văn, thấy quả thí sinh này là người học rộng, có tài, bèn nhất trí với các quan tâu vua lấy đỗ nhất. Đến khí khớp phách, bà mới hay đó là bài của Nguyễn Minh Triết, cậu em họ mình.

Trong thời gian ở cung, Nguyễn Thị Duệ thường đi lễ chùa với Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và có dịp gặp gỡ, đàm đạo văn chương đạo lý với một số danh nho tiết tháo đương thời như các thám hoa Nguyễn Đăng Cảo, Giang Văn Minh, Khương Thế Hiển. Bà luôn hướng về quê hương, lập ra “ Văn Hội” ở huyện Chí Linh cho học trò vùng này đến ôn luyện văn chương sách vở. Bà ra đề gửi cho họ làm, rồi đóng hòm trở về kinh để cho bà chấm, chữa.

Tuy nhiên đứng trước thời cuộc bấy giờ, bà Nguyễn Thị Duệ đã mang nặng nỗi niềm suy tư, trăn trở. Nhà Mạc ở Cao Bằng thì đã đến ngày tàn. Vua Lê chỉ ngồi làm vì, không có quyền hành, thực lực. Sau nội chiến Trịnh – Mạc lại tiếp đến Trịnh – Nguyễn khiến đất nước, dân tình khốn khổ. Càng nghĩ ngợi bà Duệ thêm chán ngán nên quyết xin rời cung trở về quê. Nhà vua và chúa Trịnh Tráng thấy không khuyên giữ được dành để cho bà về và cấp cho làng Kiết Đặc (An Lạc) quê bà ruộng lộc điền, miễn sưu thuế phu phen tạp dịch, để bà có nơi tĩnh dưỡng.

Nữ Trạng Nguyên hồi hương

Đến năm 70 tuổi bà xin về làng, dựng am Đàm Hoa để ở. Trong Chí Linh Phong Thổ Ký vẫn chép việc xã Kiệt Đặc thờ bà làm thần, vẫn còn bia ký. Khi ấy vua Lê giao cho bà số thuế của vùng Kiệt Đặc làm bổng lộc, bà chỉ dùng một ít để chi dụng cuộc sống, còn lại bà dành hết cho công ích, giúp đỡ người nghèo và học sinh nghèo.

Sau khi Nguyễn Thị Duệ mất, mộ của bà được đặt trên đỉnh đồi Mâm Xôi cạnh núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương).

Trên mộ có xây một ngôi tháp nhiều tầng, gọi là Tinh Phi cổ tháp, khắc 10 chữ Hán “Lễ sư sinh thông tuệ, nhất kính chiếu tam cương” (Lễ phi là người thông tuệ, một gương soi chiếu ba vua). Cuối thời Lê, Tinh Phi cổ tháp được xếp vào hàng Chí Linh bát cổ.

Năm 2004, có 8 vị đại khoa Hải Dương là hiền tài của đất nước được đúc tượng đồng và khám thờ, trong đó có nữ Tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ.

Tại Văn Miếu Mao Điền (Hải Dương) có 637 vị tiến sĩ được thờ, trong đó có bài vị của nữ tiến sĩ duy nhất đề tên “Nghi Ái quan Nguyễn Thị Duệ”. Tháng 12/2020, UBND TP Hà Nội đặt tên Nguyễn Thị Duệ cho một con phố ở quận Cầu Giấy.

Ngày 28/6/2006 UBND tỉnh Hải Dương đã ký quyết định số 2283/ QĐ-UBND phê duyệt dự án xây dựng đền thờ Nguyễn Thị Duệ. Đền thờ bà mặt hư­ớng theo phía Tây Nam, nằm trên đồi Mâm Xôi tựa nh­ư viên ngọc đư­ợc bao bọc bởi dãy núi Ph­ượng Hoàng.

Write A Comment