Demo Example
Demo Example
Demo Example
Chưa phân loại

AN NAM TỨ ĐẠI KHÍ

Có một khoảng thời gian khi XCVN tiếp xúc với các văn hóa phẩm như phim truyền hình, phim điện ảnh của các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,…chúng tôi thu thập được những thông tin rất hoành tráng về những bảo vật linh thiêng của các quốc gia Đông Á này như: Nhật Bản có “Tam Chủng Thần Khí”, Trung Hoa có “Trấn Quốc Chi Bảo”, hay Triều Tiên có “Thiên Phù Tam Ấn”. Sau đó chúng tôi dấy lên một câu hỏi rất cấp thiết rằng liệu Việt Nam ta có những bảo vật linh thiêng không?

Câu trả lời là: Có. Và sau một quá trình dài tìm hiểu, đúc kết và tổng hợp, chúng tôi đã truy xuất được về nguồn gốc những truyền thuyết trong dân gian để khẳng định rằng, Việt Nam ta ngày nay hay là Đại Việt thuở xưa có những bảo khí rất mạnh, rất linh thiêng, là biểu tượng của một nền lịch sử văn hóa cực thịnh thời Lý Trần.

Hôm nay, hãy cùng Xin Chào Việt Nam truy xuất về nguồn gốc của An Nam Tứ Đại Khí.

  1. An Nam Tứ Đại Khí là gì? Và câu hỏi truy xuất về nguồn gốc.

An Nam Tứ Đại Khí còn được gọi là Nam Thiên Tứ Bảo Khí, hay Nam Thiên Tứ Đại Thần Khí, gồm có: tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, tháp Báo Thiên, chuông Ngân Thiên (có tài liệu nói là chuông Quy Điền), và vạc Phổ Minh. Đây được coi là 4 kỳ quan, 4 quốc bảo, 4 công trình nghệ thuật dưới thời Lý, Trần.

Vậy thì, vì sao chúng được tôn vinh là “đại khí”, “bảo khí”, hay “thần khí” – nghĩa là những báu vật có thể chấn hưng cả một quốc gia, quyết định đến sự phồn vinh hay suy vong của cả một dân tộc? Chắc hẳn câu trả lời sẽ không chỉ giới hạn ở mức độ bề thế của quy mô, mức độ tinh xảo của nghệ thuật, hay mức độ vĩ đại của tinh hoa và văn hoá. Mà sâu xa hơn, nó còn ẩn chứa nhiều bí mật của cả 4000 năm lịch sử.

Và nếu nhìn lại những “bộ tứ” của Đại Việt, ta có thể thấy tất cả đều là những bậc thánh thần. Ví như An Nam Tứ Bất Tử thờ 4 vị thánh linh thiêng; Hoa Lư Tứ Trấn thờ bốn vị thần trấn giữ các hướng đông, tây, nam, bắc của vùng đất cố đô; hay Thăng Long Tứ Trấn là 4 ngôi đền thiêng thờ các vị đại thần bảo vệ cho kinh thành.

Phải chăng An Nam Tứ Đại Khí cũng cần mang trong mình những yếu tố linh thiêng và cao quý nhường ấy, mới có thể được coi là vật báu chấn hưng dân tộc Việt?

Câu hỏi này rất đau đáu vì khi chúng tôi lục tung cả “Đại Việt sử ký toàn thư” cũng không tìm được lời giải thích cho sự ra đời của tứ đại khí này. Có chăng, thì những cái tên như tháp Báo Thiên, vạc Phổ Minh, hay chùa Quỳnh Lâm được đúc từ đồng đen chỉ lác đác xuất hiện đôi lần như một công trình nghệ thuật hay một di tích bị tàn phá bởi chiến tranh. Chính sử dường như vẫn luôn tránh né những câu chuyện mang yếu tố thần thoại, trong khi huyền sử lại chỉ được chắp nối qua những lưu truyền và ghi chép dân gian.

Bởi vậy, để tìm lời giải thích cho bốn báu vật nói trên, chúng tôi đã tìm hiểu, mày mò thông qua những truyền thuyết dân gian. Cho dù nó mang sắc màu huyền thoại, cho dù nó có những yếu tố tâm linh khó giải thích bằng lời, thì dẫu sao đó vẫn là một phần của lịch sử mà dân gian vẫn gìn giữ cho chúng ta đến ngày hôm nay.

  1. Nguồn gốc của An Nam Tứ Đại Khí. Ai đã làm ra chúng? Và tại sao chất liệu đúc nên chúng lại là đồng đen?

Câu chuyện bắt đầu từ thời vua Thần Nông khoảng 5000 năm trước đây. Sau khi thống nhất sơn hà, Thần Nông làm phép thu linh khí Hoa Hạ xuống núi Thái Sơn, khiến đồng đen trong lòng núi Thái Sơn kết tinh thành trâu vàng của Trung Hoa. Khi thiên hạ thanh bình hoặc khi có chúa thánh ra đời, thì vào những đêm trăng sáng, trâu vàng lại ra khỏi núi, bay lơ lửng trên không trung, toả sáng cả một vùng.

Núi Thái Sơn vốn là nơi có mỏ đồng đen quý hiếm. Các thầy phong thuỷ Trung Hoa cho rằng đồng đen là mẹ của vàng, bởi vậy các đời vua đều thu thập đồng đen ở Thái Sơn đem cất vào kho, rồi làm phép cho trâu vàng không được rời khỏi núi.

Thời nhà Đường, vua Đường Ý Tông sai Cao Biền sang làm tiết độ sứ tại nước ta. Cao Biền sớm nhận thấy linh khí phương nam cường thịnh nên đã trấn yểm các thế đất, thu tất cả tinh hoa linh khí của Đại Việt vào bụng 36 con trâu vàng rồi đem về giam dưới núi Thái Sơn cùng với con trâu vàng của Hoa Hạ.

Về nhân vật Cao Biền ắt hẳn chúng ta đều biết về nhân vật này thông qua những câu chuyện về thành Đại La, về Tô Lịch Giang thần mà chúng tôi đã có những bài viết phân tích về nhân vật này.

Đến đời vua Tống Thái Tông, sau khi bại trận trước quân ta ở Chi Lăng và Bạch Đằng, vua Tống sai đào trâu mang về yểm ở hoàng cung, trong đó có cả con trâu vàng Trung Hoa và 36 con trâu vàng giữ linh khí Đại Việt.

Sau đó, khi hai vị thánh tăng của Đại Việt là Nguyễn Minh Không và Từ Đạo Hạnh vân du đến Trung thổ, các vị đã giúp nhà Tống trừ tà tại hoàng cung nên được vua Tống ban thưởng đồng đen. Hai vị thánh tăng đã làm phép thu hết cả kho đồng đen, đồng thời lấy lại 36 con trâu vàng có chứa tinh anh của dân tộc Việt. Từ đó, linh khí Đại Việt lại rực sáng cả trời nam.

Sau khi trở về, Nguyễn Minh Không và Từ Đạo Hạnh đã dùng số đồng đen thu được đúc thành bốn bảo khí giữ nước, được gọi là Nam Thiên Tứ Đại Thần Khí.

Bởi vì đồng đen là tinh hoa trên núi Thái Sơn, mang trong mình linh khí của trời đất, vậy nên tứ bảo khí của Đại Việt, một cách tự nhiên, đã mang trong mình một sức mạnh thần kỳ.

  1. Liệt kê, điểm nhanh về An Nam Tứ Đại Khí và lý do chúng không còn.

Bảo khí thứ nhất: Đỉnh tháp Báo Thiên

Chùa Báo Thiên được xây dựng từ thời vua Lý Thánh Tông. Vào niên hiệu Long Thụy Thái Bình (1056), vua ngự thuyền ra hồ Tây thưởng ngoạn. Bỗng đâu xuất hiện một người lạ trách mắng vua rằng: “Nhà ngươi làm chúa trời Nam, sao không lo tu đức, sửa sang chính sự mà lại rong chơi? Như vậy vua làm gương cho kẻ xấu, cho bọn tham quan ô lại, cường hào ác bá hà hiếp dân lành. Ta là thần giữ việc mưa gió vùng này. Nay thấy dân khổ nên báo cho vua hay”, nói xong bèn biến mất.

Vua Lý Thánh Tông vội trở về kinh, chấn chỉnh lại triều chính, đồng thời sai người xây chùa để tạ ơn Trời Phật, vì vậy chùa mới có tên là “Báo Thiên”. Sang năm sau (1057), nhà vua lại cho dựng một tòa tháp cao 20 trượng (40m) gồm 12 tầng.

Đến đây, hai vị thánh tăng lại dùng đồng đen để đúc nên đỉnh tháp (tầng thứ 13). Cũng kể từ đó những vì tinh tú trên thiên hà đều hướng về phương nam, đêm đêm tỏa hào quang chiếu sáng đất Thăng Long.

Trải qua 200 năm tồn tại, Tháp Báo Thiên cuối cùng cũng đã gặp phải những sóng gió tai ương. Trận bão năm Mậu Ngọ (1258) đời Trần Thánh Tông đã làm ngọn tháp này bị đổ. Sau khi được trùng tu, tháp lại bị sét đánh sạt mất hai tầng về góc bên Đông vào năm Nhâm Tuất (1322) đời Trần Minh Tông. Đến tháng sáu năm Bính Tuất (1406) đời Hồ Hán Thương, nghĩa là 84 năm sau khi được trùng tu lần thứ hai, đỉnh tháp lại bị đổ, mặc dù không gặp phải sự cố mưa bão hoặc sấm chớp gì. An phủ sứ Đông Đô lúc đó là Lê Khải vì không báo tin này cho Hồ Hán Thương biết mà bị biếm tước 1 tư (giáng xuống một trật). 

Thời thuộc Minh (1414-1427), quân Minh đã cho phá tháp để chế súng. Chỗ tháp bị phá sau đó được đổ đất thành gò cao để dựng đàn tràng.

Bảo khí thứ hai: Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm

Bức tượng tại chùa Quỳnh Lâm (xã Hà Lôi, huyện Đông Triều tỉnh Quảng Ninh- là một trong những ngôi chùa nổi tiếng bậc nhất đời Trần) không chỉ được chế tạo từ đồng đen, mà bên trong còn lưu giữ 18 viên xá lợi của các vị bồ tát Đại Việt, lại thêm 360 viên đá linh khí từ các đền thờ chư thánh và anh hùng của Đại Việt. 

Bởi chứa tinh anh của dân tộc, nên đây là bức tượng linh thiêng vào bậc nhất cõi trời Nam. Có câu nói rằng, chỉ cần pho tượng vẫn còn thì Trung Nguyên mãi mãi không thể xâm phạm bờ cõi An Nam.

Tương truyền, tượng cao đến 6 trượng (khoảng 20 mét?). Thời giặc Minh xâm lược nước ta (1407-1427), chùa bị phá hủy, pho tượng bị cướp mang đi (đầu thời Lê, chùa Quỳnh Lâm được dựng lại, nhưng đến đời Thiệu Trị (1841-1847) lại bị đốt trụi!).

Bảo khí thứ ba: Vạc Phổ Minh

Vạc đặt trong chùa Phổ Minh ở Nam Định. Vạc Phổ Minh được đúc vào tháng 2 năm Nhâm Tuất (1262) đời Trần Thánh Tông, nhân dịp Trần Thái Tông (lúc đó là Thượng Hoàng) về chơi Tức Mặc. Theo Việt sử thông giám cương mục : Tại đây, Trần Thái Tông đã ban yến cho dân làng. Các hương lão từ 60 tuổi trở lên được ban tước hai tư, lão bà thì được hai tấm lụa. Nhân đấy, đổi Tức Mặc làm phủ Thiên Trường. Dựng cung Trùng Quang để các vua sau khi đã nhường ngôi về ở; lại dựng một cung riêng gọi là cung Trùng Hoa cho Tự Quân (vua Mới) khi đến chầu Thượng hoàng thì ngự ở đó. Đặt người chức dịch ở hai cung ấy để phòng khi sai khiến, hầu hạ và chức lưu thủ để trông coi. Phía Tây cung Trùng Quang dựng chùa Phổ Minh. 

Theo mô tả, vạc nặng ba vạn cân, bên ngoài có hình rồng uốn lượn và hình chim âu đang bay, trên thành có 100 lỗ hình quả trứng tượng trưng cho con Rồng cháu Tiên. Trong mỗi lỗ lại đặt một tượng rồng vàng để tích tụ linh khí của dòng dõi Bách Việt. Bệ vạc khắc tên tất cả các vị vua của dân tộc, từ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, cho đến vua Lý Thánh Tông. Tương truyền, miệng vạc dày và rộng đến nỗi hai người có thể chạy nhảy và đi lại trên đó.

Tục truyền rằng, ngay sau khi vạc được an trí, trên không có tiếng nhạc vang lừng, rồi hàng vạn con hạc từ đâu về bay lượn. Hào quang từ trong vạc phát ra sáng chói một vùng. Ngài Minh Không thấy vậy mới nói rằng: “Không ngờ linh khí tụ nhanh đến vậy. Sau đây trên trăm năm sẽ có giặc phương Bắc, thiên hạ không ai địch nổi. Nhưng nơi đây một vị đại thánh sẽ giáng trần phá tan giặc đó”.

Quả nhiên, mảnh đất ấy là nơi phát tích ra nhà Trần sau này. Còn người anh hùng đó chính là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông.

Cùng với chuông Quy Điền, tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) khi bị vây ở Đông Quan, Vương Thông đã cho phá vạc Phổ Minh để lấy đồng đúc vũ khí. Như vậy, từ trước đó, vạc Phổ Minh đã được quân Minh chuyển từ Thiên Trường (Nam Định) về Đông Quan (Hà Nội).

Bảo khí thứ 4: Chuông Quy Điền

Chuông Quy Điền được đúc trong lần sửa lại chùa Diên Hựu (Một Cột) vào tháng hai năm Canh Thân (1080) đời Lý Nhân Tông. Để đúc quả chuông này, vua Lý Nhân Tông đã cho sử dụng đến 12 ngàn cân đồng (tương đương với 7,3 tấn) đồng. Chuông đúc xong, đánh không kêu, nhưng cho rằng nó đã thành khí, không nên tiêu hủy, nhà vua bèn sai người vần ra khu ruộng sau chùa. 

Vì khu ruộng này thấp trũng, có nhiều rùa đến ở, nên có tên là Quy Điền (ruộng Rùa), nhân đó gọi chuông là chuông Quy Điền (theo Nguyễn Văn Tân, tác giả Từ điển địa danh lịch sử văn hóa Việt Nam thì lúc đầu chuông có tên là Giác Thế. Đúc xong, vì quá nặng không có chỗ treo, buộc phải để úp xuống đất và sau khi được vần ra ruộng Rùa, thì mới có tên là chuông Quy Điền). Tháng 10 năm Bính Ngọ (1426), chuông Quy Điền đã bị Vương Thông (nhà Minh) cho phá hủy để chế súng đạn, hỏa khí.

Đọc thêm: Top những món đồ chơi Trung Thu ngày xưa

  1. Truy xuất sâu xa hơn của Xin Chào Việt Nam

Như trong các tài liệu về chính sử, dân gian truyền miệng, các huyền tích,…ba trên bốn bảo vật của An Nam đều được hai bậc thánh tăng là Thích Minh Không và Từ Đạo Hạnh tạo nên, chỉ có bảo vật Chuông Quy Điền không phải do hai vị này tạo ra, vậy nên chúng tôi dấy lên một câu hỏi: Liệu rằng Chuông Quy Điền có thật sự là bảo vật thứ tư hay không? Hay chỉ vì bảo vật này được đúc từ rất nhiều đồng đen và nó cùng với vạc Phổ Minh đều bị tên giặc cướp nước là Vương Thông phá hủy nên dân gian từ đó mà gọi chiếc chuông này là bảo vật trời Nam?

Có câu hỏi này là bởi sau khi tìm tòi, đào sâu nghiên cứu, chúng tôi tự đặt ra câu hỏi rằng: tại sao một chiếc chuông không thể đánh phát ra tiếng lại được coi là bảo vật ? Hơn nữa cũng không thể hiện được ý nghĩa linh thiêng như ba thần khí còn lại. Bởi vậy, giả thiết theo ý kiến cá nhân của chúng tôi giả thiết Chuông Quy Điền là bảo vật e rằng không hợp lý.

Vậy bảo vật thứ 4 là gì? Qua tìm hiểu về những bảo vật mà hai vị thánh tăng tạo nên, chúng tôi biết được thông tin về Chuông Ngân Thiên.

Nói về chuông Ngân Thiên, sở dĩ có tên gọi như vậy là vì tiếng chuông vang rền lên tận trời xanh.

Chuông Ngân Thiên gắn liền với sự tích con trâu vàng dưới lòng Hồ Tây. Chuyện kể rằng, sau khi đúc, chuông được đưa lên đỉnh tháp Báo Thiên. Lúc ấy thần linh đều tụ về nơi này, hai vị thánh tăng mới bắt đầu đánh chuông. Tiếng chuông vang rền, ngân tới tận Trung Hoa. Vì đồng đen là mẹ của vàng, con trâu vàng Hoa Hạ ngỡ là tiếng mẹ gọi bèn vùng lên chạy về đất Thăng Long, rồi sau được trấn yểm dưới lòng Hồ Tây. Gần nơi trâu trầm xuống được dựng đền thờ, gọi là đền Kim Ngưu, nghĩa là đền Trâu Vàng. Người dân Thăng Long vẫn đồn đại rằng, những đêm trời đẹp trâu vàng lại nổi lên mặt Tây Hồ, có lẽ là vì vậy.

Lại nói về quả chuông Ngân Thiên, hai vị thánh tăng cho rằng thần linh Đại Việt tuy nhiều nhưng quỷ ma cũng không thiếu. Trải qua các cuộc chiến tranh, rất nhiều hồn phách của binh sĩ Trung Hoa bỏ mình trên đất Việt vẫn thường quấy nhiễu nhân gian. Bởi vậy, hai vị đã chiêu hồn họ để làm chày giải oan. Với những binh hồn không thể siêu thoát, hai vị lại thu hồn phách của họ vào chuông Ngân Thiên rồi thả xuống sông Lục Đầu (Sông Lục Đầu hay Lục Đầu Giang là một đoạn sông bao gồm 6 con sông, mang tên sông Thương, sông Cầu, sông Lục Nam, sông Đuống, sông Kinh Thầy, sông Thái Bình gặp nhau tạo thành). Nơi quả chuông rơi xuống còn được gọi là “đọa chung lại”, tức vũng chuông rơi.

————

Đến đây ta có thể thấy những yếu tố linh thiêng làm nên Tứ Đại Khí của mảnh đất An Nam. Nó thần thánh, bởi nó được tạo nên từ hai vị thánh tăng bất tử của Đại Việt – Nguyễn Minh Không và Từ Đạo Hạnh. Nó thần thánh, bởi nó hội tụ tất cả linh khí và tinh hoa của 4000 năm lịch sử dân tộc. Và nó thần thánh, bởi đó là những pháp khí gắn liền với Phật và Thần.

Trải qua bao phong ba tuế nguyệt, An Nam Tứ Đại Khí đã chứng kiến những trang sử hào hùng của hai thời Lý, Trần. Người ta nói Lý-Trần là hai thời đại huy hoàng của Đại Việt bởi đây là những triều đại tôn vinh Phật Pháp, coi Phật giáo là quốc pháp cai trị đất nước, và ngay cả nhiều vị vua cũng xuất gia tu hành. Đây cũng là thời kỳ mà những bậc anh tài đã xuất hiện làm rạng rỡ non sông, như Lý Thường Kiệt, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, v.v. Có lẽ cũng còn một lý do để tin rằng, trang sử huy hoàng đó có đóng góp không nhỏ của 4 bảo khí đất An Nam

Xem thêm các video hấp dẫn của Xin Chào Việt Nam tại đây:

Comments are closed.