Cầu Long Biên là cây cầu lịch sử nổi tiếng tại Hà Nội, Việt Nam, bắc qua sông Hồng và nối liền hai quận Hoàn Kiếm và Long Biên. Được xây dựng bởi người Pháp từ năm 1899 đến 1902, cầu Long Biên là một trong những cây cầu thép đầu tiên và lớn nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ. Cùng Xin Chào Việt Nam khám phá về Cầu Long Biên và những điều chưa biết.
Cây cầu được xây dựng mà…chẳng ai tin tính khả thi của nó.
Paul Doumer – toàn quyền Đông Dương lúc bấy giờ – là một viên toàn quyền “rắn mặt”. Khi nhận chức vào năm 1896, nền kinh tế Pháp đang xập xệ và thua kém nhiều nước Châu Âu khác. Để khai thác thuộc địa có kết quả trước mắt và lâu dài, Paul Doumer nhận thấy giao thông là vấn đề cốt yếu phải quan tâm đầu tiên đối với một thuộc địa vốn đi lại và vận chuyển hàng hóa chủ yếu bằng đường thủy. Và ông ta đã công bố kế hoạch xây cầu Long Biên bắc qua sông Hồng với đầu cầu bên nội đô là bến đò chùa Móc, đầu bên kia là bến đò Ái Mộ.
Thế nhưng, người ta mỉa mai ông nhiều hơn là ủng hộ. Tờ “Thư tín Hải Phòng” (Le Courries HaiPhong) – một tờ báo của giới thương gia Pháp tại Hải Phòng đã châm chọc tính vĩ cuồng của Paul Doumer “Khi xây một cây cầu, người ta phải biết nó có dùng được hay không, liệu có bắc sang được một con sông hay không. Thế nhưng ông ta không nghĩ tới điều đó, không nghĩ tới sự thay đổi dòng chảy liên tục của con sông Hồng hung dữ vào mùa mưa”.
Nhưng bỏ ngoài tai dèm pha, vị toàn quyền này vẫn quyết tâm xây dựng cầu và đưa ra gói đấu thầu. Công ty trúng thầu thiết kế là Daydé et Pillé, và công ty này đã đưa ra thiết kế kiểu dầm chìa đỡ hai bên, các thanh đỡ hình răng cưa, đỉnh cao nhất là 17m tính từ trụ cầu.
Theo thiết kế, cầu Long Biên có 19 nhịp gồm:
– Hai nhịp tiếp giáp hai bờ dài 78,7m
– 9 nhịp dài 75m xen kẽ với 8 nhịp dài 106,2m, đặt trên 20 trụ.
– Mỗi bên vỉa hè rộng 1,3m, ngoài là lan can sắt cao 1m.
– Chiều dài phần sắt là 1.682m, cộng thêm phần cầu dẫn tổng cộng là 2.500m.
Cầu Long Biên được xây dựng bởi bàn tay thợ Việt và nguyên liệu nội.
Ban đầu, nhà thầu không tin tưởng vào nhân công người Việt vì bản chất người An Nam lúc bấy giờ chỉ làm việc đồng áng, vậy nên nhân công chủ đạo khi xây dựng cầu là người Trung Quốc. Tuy nhiên, sau một thời gian, hơn 40 đốc công, kỹ sư của nhà thầu nhận thấy thợ người Việt sức yếu hơn nhưng bù lại rất khéo tay. Chưa kể, họ có sức chịu đựng dẻo dai hơn hẳn thợ Trung Quốc. Khi xây móng cầu, họ đưa công nhân xuống hố trụ, thắp đèn điện công suất lớn rồi bịt kín miệng và bơm không khí xuống. Cứ sau 4 tiếng lại đổi kíp 1 lần. Lúc đó, việc công nhân làm trong hố trụ sâu 30m suốt 4 tiếng đã là một kỷ lục.
Lúc cao điểm công trường có tới 3.000 thợ người Việt. Có thể coi những người thợ sắt, thợ xây, thợ cẩu, thợ đá… này là những lớp công nhân Việt Nam đầu tiên.
Không chỉ nhân công người Việt, cầu Long Biên sử dụng tới 75% vật liệu trong nước, gồm 30.000m3 khối đá, hàng vạn mét gỗ lim lát mặt hai bên cánh gà lấy từ Thanh Hóa, hàng vạn tấn vôi chuyển từ Huế ra và hàng triệu tấn xi măng Hải Phòng.
Khởi công ngày 12-9-1898 nhưng đến ngày 3-2-1902, nghĩa là chỉ hơn 3 năm cầu đã được hợp long và ngày 28-2-1902 lễ khánh thành đã được tổ chức
Vào thời điểm đó, đây là cây cầu dài thứ hai thế giới, sau cầu Brooklyn ở Mỹ. Cầu mang tên toàn quyền Paul Doumer nhưng dân chúng gọi là cầu Long Biên với ý nghĩa nó nằm bên cạnh thành Thăng Long xưa và còn có tên khác là cầu Sông Cái.
Cây cầu mà chiều đi đúng là…bên trái.
Hiện cầu Long Biên vẫn sừng sững như xưa, dù đã trải qua bao thời gian, bom đạn. Hằng ngày, hàng chục nghìn lượt người ngược xuôi trên cây cầu soi bóng Hồng Hà và mọi người đều… đi bên trái như những người Ănglê. Điều này có vẻ hơi phí lý, vì đây là cây cầu do người Pháp thiết kế, phục vụ nhu cầu giao thông và yêu cầu của cuộc khai thác thuộc địa của người Pháp.
Những người Pháp thiết kế cầu kiểu Pháp, ban đầu lối đi được thiết kế để đi bên phải. Nhưng tại sao lối đi của cầu Long Biên lại bên trái? Nguyên nhân rất đơn giản: Khi người Pháp thực hiện công cuộc khai thác tại miền Bắc, mọi sản vật, khoáng sản đều được chuyển về “mẫu quốc” theo đường cảng Hải Phòng.
Xe cơ giới chở đi thì nặng, quay về Hà Nội thì nhẹ. Do quá trình thăm dò địa chất khi thi công chưa thật tốt, nên càng ngày bên phải cầu càng phải chịu tải trọng lớn hơn bên trái và… nghiêng dần sang phải. Nhằm khắc phục tạm việc nghiêng cầu, người Pháp đã phân luồng xe chạy sang bên trái.
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám nổ ra, chính quyền về tay Việt Minh và người dân vẫn giữ thói quen đi lại đó. Dần dần, qua năm tháng, việc đi bên trái đã trở thành bình thường và là một nét độc đáo của cây cầu trăm tuổi nối hai bờ sông Hồng, dù điều này chẳng mấy ai biết đến và để tâm.
Ngoài ra ở Việt Nam, một cây cầu cũng đi về phía bên trái là cầu Việt Trì – Phú Thọ.
Hiện tại dù có thêm 4 cây cầu bắc qua sông Hồng gần với Long Biên song vị trí và vai trò của nó đối với đời sống xã hội vẫn rất quan trọng. Không chỉ có ý nghĩa kinh tế, cầu Long Biên được ví như gạch nối với lịch sử, nối Thành Cổ Loa với Hoàng thành, nối xưa với nay.
- Xem thêm các video hay của Xin Chào Việt Nam: Tại đây