Năm 1630, theo lệnh chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Đào Duy Từ chỉ huy xây dựng một công trình lũy quân sự ở bờ nam sông Nhật Lệ (nay là Đồng Hới, Quảng Bình), có tên là Lũy Thầy, hay còn gọi là lũy Đào Duy Từ. Công trình này nhằm bảo vệ Đàng Trong trước các cuộc tấn công của chúa Trịnh Đàng Ngoài.
Thời điểm đó, Lũy Thầy vô cùng đồ sộ, đến mức nhân dân còn lưu truyền câu thơ: “Khôn ngoan vượt được Thanh Hà/Dẫu rằng có cánh khó qua Lũy Thầy”. Quả thật vậy, sau hơn 100 năm sau, Lũy Thầy vẫn sừng sững, đứng vững trước nhiều cuộc chiến mà không hề bị xuyên thủng.
Lũy Thầy còn được gọi là Lũy Đào Duy Từ vì đây là vị quan chỉ huy thiết kế, xây dựng công trình. Ông quê ở phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Với tài đức của mình, Đào Duy Từ được chúa Nguyễn vô cùng kính nể, còn gọi ông là thầy. Người dân gọi thành lũy ông xây là Lũy Thầy cũng phần nào để bày tỏ lòng tôn kính đến vị đại quan này.
Lũy Thầy được Đào Duy Từ khởi công đắp vào năm Tân Hợi (1631), ở Đồng Hới, Quảng Bình. Lũy cao 12 thước, dài 10 dặm, trải dài từ núi Đầu Màu đến cửa sông Nhật Lệ đổ ra biển, có hình cong như hình cầu vồng. Mặt lũy khá rộng, có thể đi lại được. Cứ mỗi đoạn 40 thước lại xây một pháo đài, đặt súng Thần công án ngự. Từ đó, chiến tranh Trịnh-Nguyễn thực sự xảy ra. Sông Gianh (còn gọi là Linh Giang) là giới hạn. Khi Đào Duy Từ qua đời, chúa Nguyễn truy tặng ông là Trụ Quốc Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu Lộc Khê Hầu.
Năm Minh Mạng thứ 12 (1841), Lũy Thầy được sắc phong làm “Định Bắc Trường Thành” và Đào Duy Từ được truy phong làm Khai Quốc Công Thần.
Mặc dù Lũy Thầy được đắp bằng đất, nhưng là một công trình phòng thủ khá bề thế, kết hợp với con hào tự nhiên là con sông Gianh, vì thế nơi đây trở thành một phòng tuyến quân sự lợi hại. Ngay từ thời các chúa Nguyễn đã có câu ca về thành cao, hào sâu này:
“Lũy Thầy ai đắp mà cao
Sông Gianh ai bới, ai đào mà sâu”.
Chính cái vị trí đắc địa của phòng tuyến kết hợp giữa thiên nhiên và nhân tạo này đã phát huy tác dụng triệt để. Mảnh đất phía Bắc Quảng Bình hẹp, một bên dựa vào dãy Trường Sơn hiểm trở, một bên là Biển Đông, chỉ còn một lối tiến công là dải đồng bằng. Vì thế phòng tuyến giăng ngang giữa hai đầu núi biển đã như một cánh cửa đóng chặt con đường vào Nam giống như cái thế đất eo “cổ chai”, bảo vệ vùng đất có dinh các chúa Nguyễn ở Quảng Trị. Công trình thành lũy phòng thủ này lợi hại đến nỗi mà:
“Khôn ngoan qua được Thanh Hà
Dẫu rằng có cánh khó qua Lũy Thầy”.
Thực ra, Lũy Thầy là một hệ thống lũy, có thể kể ra như sau:
Lũy Trường Dục dài 2.500 trượng, tức khoảng 10km, chạy từ chân núi Thần Đinh dọc theo hữu ngạn sông Rào Đá (Long Đại) đến ngã ba sông Nhật Lệ, men theo bờ Nam qua các làng Xuân Dục, Cổ Hiền, Trường Dục, Quảng Xá đến vùng động cát của phá Hạc Hải. Lũy Trường Dục được đắp bằng đất sét cao 3m, chân lũy rộng 6m. Bên trong lũy có doanh trại, công sự, kho lương thực.
Sau đó, một lũy khác được đắp bổ sung ở vùng Động Hải (Quảng Bình), được gọi là lũy Đầu Mâu, cách lũy Trường Dục gần 20km về phía Bắc. Lũy này được đắp cao khoảng 6m, cao gấp đôi lũy Trường Dục; phía ngoài lũy đóng cọc gỗ lim, phía trong đóng cọc tre, đổ đất lên 5 tầng cấp, voi và ngựa có thể đi trên thành lũy. Trên lũy cứ cách 12m đến 20m lại xây một pháo đài đặt súng thần công, cách 4m đặt 1 súng phóng đá. Chiều dài của lũy khoảng 12km từ động Ông Hồi dưới chân núi Đầu Mâu chạy men bờ Nam sông Lệ Kỳ đến cầu Dài ở phía Nam Đồng Hới.
Tiếp theo, lũy Trấn Ninh cũng được xây dựng. Lũy này tiếp nối với lũy Đầu Mâu, chạy từ Cầu Dài, vòng sang phía Tây thành Đồng Hới, bọc lấy làng Đồng Phú, qua Hải Thành ra đến cửa sông Nhật Lệ. Phía ngoài lũy còn được đào hào vây quanh. Lũy Đầu Mâu hợp với lũy Nhật Lệ được gọi là lũy Động Hải (Đồng Hới) hay Trấn Ninh. Kiến trúc của lũy đã lợi dụng địa thế các bãi lầy và kinh rạch để ngăn các cuộc tấn công của đối phương rất hiệu quả.
Trên chiều dài khoảng 17km từ Đầu Mâu đến Nhật Lệ lũy Động Hải còn lại 3 cửa, trong đó có cửa vào dinh Quảng Bình, còn gọi là Quảng Bình Quan nay vẫn đứng sừng sững bên đường Quốc lộ 1A, vốn xưa là con đường Thiên Lý xuyên Việt, như chứng nhân của lịch sử Quảng Bình suốt hàng trăm năm.
Lịch sử đã ghi lại hệ thống Lũy Thầy là một tuyến phòng thủ kiên cố. Năm 1633, Trịnh Tráng khởi binh đánh chúa Nguyễn đã phải dừng bước ở cửa sông Nhật Lệ, bị quân Nguyễn phục kích đánh úp, quân tướng hoang mang rệu rã phải lui về bờ Bắc sông Gianh. Năm 1634, chúa Nguyễn lại cho đắp thêm lũy Trường Sa, dài 7km chạy từ Sa Động đến Huân Cát, hữu ngạn sông Nhật Lệ. Năm 1648, quân Trịnh tấn công lũy Trường Dục nhưng không phá được đoạn thành này, lại bị đẩy lui xuống vùng đầm lầy Võ Xá và bị sa lầy tại đấy nên phải rút quân về Bắc, để lại 3 tướng và 3.000 quân bị bắt làm tù binh.
Trận đánh ác liệt nhất trong cuộc chiến Trịnh – Nguyễn vào năm 1672 đã chứng tỏ sự lợi hại của hệ thống thành lũy. Quân Trịnh liên tục tấn công mặt lũy Trấn Ninh nhưng không hạ được thành, phải rút lui, chấm dứt cuộc chiến gần 50 năm và mở ra hơn một thế kỷ hòa hoãn.
Có thể nói, góc độ quân sự, hệ thống Lũy Thầy đã phát huy sức mạnh tối đa. Với nhiều lớp thành đất phòng thủ liên hoàn, tổng cộng 34km kết hợp với địa thế thiên nhiên đã đứng vững qua 7 cuộc tấn công của quân chúa Trịnh. Có lẽ trong lịch sử cổ đại nước ta, Lũy Thầy là một hệ thống thành lũy đơn giản, dễ thi công, nhưng lại phát huy tốt nhất chức năng phòng thủ. Đội quân của chúa Trịnh với nhiều binh hùng tướng mạnh cũng đã phải dừng bước trước hệ thống Lũy Thầy lợi hại.
Mãi đến hơn 100 năm sau, vào năm 1774, trong lúc Đàng Trong rối ren, quân của Chúa Trịnh đã vượt sông Gianh, bắt được Trương Phúc Loan mang về kinh trị tội. Lũy Thầy cũng lần đầu tiên bị công phá. Hơn mười năm sau, quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ đập tan cả hai tập đoàn này để thống nhất đất nước, xóa nhòa giới tuyến.
Đầu năm 1802, tại Lũy Thầy diễn ra trận kịch chiến giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh. Có rất nhiều quân Tây Sơn đã nằm lại nơi đây, trong đó có nữ tướng Bùi Thị Xuân. Những biến động lịch sử sau đó khiến Lũy Thầy không thể nguyên vẹn như thuở ban đầu mà dần biến mất. Chiến tranh chống Pháp, Mỹ diễn ra, Đồng Hới bị giày xéo bởi bom mìn nên địa danh lịch sử này chỉ còn sót lại những đoạn tường gạch nung. Năm 1994, Lũy Thầy được trùng tu và có hình dạng như hiện tại.
Dạo bước giữa phố phường của thành phố Đồng Hới ngày nay, bạn có thể thấy đấu tích xưa của Lũy Thầy quanh cửa sông Nhật Lệ. Đây đó vẫn còn một vài gò đất cao hay đoạn thành thấp ở phường Phú Hải hay tấm bia đá ven đường còn ghi sự tích Lũy Thầy. Ngày nay, Lũy Thầy đã được xếp hạng là Di tích quốc gia. Nơi Lũy Thầy ngày xưa nay đã là phố xá, dọc ven sông Nhật Lệ đã sừng sững tượng đài “Mẹ Suốt anh hùng” chèo đò qua sông Nhật Lệ thời chống Mỹ. Lũy Thầy bây giờ chỉ còn một chút di tích, thư tịch ghi lại và những câu ca dao truyền đời.
Thêm nữa, Lũy Thầy lại càng nổi tiếng bởi đi vào bài hát quen thuộc “Bình Trị Thiên khói lửa” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương với đoạn ca: “Ai đã qua đèo Ngang, đã sang Ba Rền. Mến dòng sông Gianh, biết danh Lũy Thầy”.
Không những nổi tiếng, Lũy Thầy còn là di sản văn hóa vật thể chứng minh cho sự sáng tạo trong lịch sử quân sự Việt Nam.
- Xem thêm các video hay của Xin Chào Việt Nam tại đây